Giới thiệu sách Đường Lối Chính Trị Của Phủ Toàn Quyền Đông Dương
của Ngô Thị Quý Linh
Tôi vừa nhận được sách “Đường Lối Chính Trị Của Phủ Toàn Quyền Đông Dương” do tác giả tặng.
Đây là một ngạc nhiên thích thú vì thật vui khi thấy tác giả qua bao năm vẫn còn “miệt mài đèn sách”, vẫn còn mê mải sưu tầm, lục lọi những tài liệu quý hiếm mà bà thu thập qua bao nhiêu năm và đem ra cho chúng ta thưởng thức dưới hình thức những bài báo thâm sâu, những diễn thuyết lôi cuốn ở những buổi sinh hoạt cộng đồng hay chuyên nghiệp y giới, và những cuốn sách dài hơi như cuốn về Phật giáo trước đây (2021), hay xinh xắn như cuốn sách này về các phủ toàn quyền Pháp trong thời gian Việt Nam còn là thuộc địa của Pháp.
Sách 238 trang, khổ giấy 6x9. Bìa sách màu giấy láng với bản đồ của Đông Dương thuộc Pháp năm 1913 chồng lên hình của Dinh Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội. Viện nghiên Cứu Lịch Sử &Văn Hóa việt Nam Xuất Bản -2025. Bìa sau tóm tắt nội dung sách, trả lời câu hỏi: Sau hơn 60 năm cầm quyền (1884-1945), các tổng trú sứ và toàn quyền đã thực hiện những việc gì và thay đổi xã hội Việt Nam ra sao trong khi tìm cách đạt đến mục tiêu trợ giúp kinh tế và chính trị cho “Mẫu quốc” Pháp?
Trên hai trăm trang giấy với giọng văn giản dị, không cố gắng thuyết phục, không cố gắng biện minh, không phê phán, tác giá trình bày những sự kiện, những hình ảnh lịch sử minh họa, những đoạn trích được để nguyên văn hay dịch chính xác từ tiếng Pháp (mà chị rất thông thạo) đi từ Hòa Uớc Giáp Thân (1884) biến ba kỳ thành xứ bảo hộ cho đến ngày 15 tháng 8 năm 1945 lúc Phủ Toàn Quyền, biểu tượng cho chính quyền Thuộc địa Pháp được trao lại cho chính phủ Đế Quốc Việt Nam, và lúc mà Việt Nam có chủ quyền, độc lập và thống nhất dù trong một thời gian ngắn.
Mặc dù tựa đề sách là “Đường Lối Chính Trị Của Phủ Toàn Quyền Đông Dương”, nội dung đi rất xa đề tài Phủ Toàn Quyền Pháp. Trong sách, toàn quyền được đề cập nhiều nhất là Albert Sarraut, là người “thực sự đem đến những thay đổi quan trọng cho nền giáo dục Việt Nam ở Trung kỳ và Bắc Kỳ”. Ông làm toàn quyền ở Đông Dương trong hai nhiệm kỳ 1911-1914 và 1916-1919, trong lúc hai cuộc cách mạng lớn xảy ra ở Trung Hoa (1911) và Nga (1917). Tác giả dành gần 40 trang nói về thời hay vai trò của Sarraut (trang 36-74), và với Sarraut, Phạm Quỳnh cũng như Nam Phong Tạp chí được trích dẫn rất nhiều trang giấy. Nói về Phạm Quỳnh, một số chi tiết khá độc đáo và rất thú vị: Nam Phong tuy ra đời năm 1917 nhưng thật ra đã có từ lâu. Tiền thân của nó là bộ “Âu châu chiến sử” do chính phủ Đông pháp đặt hàng với Phạm Quỳnh và Nguyễn bá Trác “ làm một tờ báo bằng chữ nho, lấy tin tức ở sở điện tín ARIP, nói ròng chuyện chiến tranh viết bài kể từ nguyên nhân gốc rễ cuộc Âu chiến, tuyên bố hết những việc tàn khốc dã man của dân Đức. Bài thì ký tên người Tàu, và báo cũng in ra hàng muôn số, rồi đem sang Trung quốc phát không, để làm cách chống lại việc tuyên truyền của bên nghịch…”( Phụ nữ Tân văn số 87 phỏng vấn Phạm Quỳnh; dẫn trong sách trang 42).
Vua Bảo Đại cũng là đề tài được tác giả đặc biệt chiếu cố, nhắc đến rất nhiều trong trên dưới 50 trang (113-163) với nhiều hình ảnh; trong đó hoạt động thăm viếng Bắc kỳ của ông được ghi gần như từng giờ, từng ngày trong 22 trang giấy (trang 135-152).
Nói tóm lại, sách “Đường Lối Chính Trị Của Phủ Toàn Quyền Đông Dương” là một tập hợp phong phú của nhiều tin tức hình ảnh không chỉ riêng của các toàn quyền Pháp thời cuối thế kỷ thứ 19 đầu thế kỷ thứ 20 mà còn bao gồm đủ mọi mặt nhất là về hoạt động chính trị, văn hóa, giáo dục đánh dấu một thời mà Việt Nam đang chuyển đổi từ xã hội truyền thống quân chủ sang xã hội thuộc địa tây phương hóa trước khi chập chững bước đến nền độc lập tự chủ.
Đây là một cuốn sách hay, có ích, rất thú vị, phong phú với nhiều tư liệu gốc, tài liệu tiếng Việt không qua dịch thuật (có khi dịch sai như trong sách của người Mỹ hay Pháp) của một nữ học giả Việt với truyền thống gia đình từ ba miền đất nước, được hưởng ba nền giáo dục Việt, Pháp và Mỹ và có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong sinh hoạt văn hóa hải ngoại hàng mấy chục năm nay. Cũng vì vậy mà cuốn sách cũng là một nơi chúng ta có thể tham khảo về tiếng Việt trong thời Pháp thuộc, nhất là thuật ngữ hành chánh, chính trị và văn hoá.
Một đặc điểm khác của cuốn sách là tác giả viết một mạch từ lời mở đầu cho đến cuối, không chia thành chương đoạn, không tiêu đề, chỉ có Phụ lục gồm danh sách các toàn quyền và thư mục tham khảo dài 3 trang ở cuối sách.
Đọc sách chị Ngô Thị Quý Linh làm tôi nhớ lại hai cuốn sách tôi từng đọc về đề tài chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam. Cuốn thứ nhất là cuốn sách của David Marr tôi mua từ ngày mới đặt chân lên nước Mỹ, lúc tình cảm “nhớ nước đau lòng con quốc quốc” còn nặng, cuốn kia của hai tác giả Pháp Brocheux và Hémery lúc định cư đã khá lâu ở Mỹ.
Trong dòng chảy nghiên cứu về lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc, hai công trình kinh điển này đã đặt nền móng vững chắc cho các thế hệ học giả sau này. Tác phẩm "Vietnamese Tradition on Trial 1920-1945" của David Marr (1981), người Mỹ, phân tích sâu về những cuộc tranh luận sôi nổi và sự biến chuyển trong tâm thức của giới trí thức Việt Nam, qua đó cho thấy một xã hội đang tự "xét xử" lại các giá trị truyền thống, thể hiện một lập trường khắt khe với những nhân vật hợp tác với Pháp như Phạm Quỳnh. Công trình của David Marr là một ví dụ điển hình về "lịch sử từ bên dưới" (history from below) hay học thuật hậu thuộc địa. Mối quan tâm chính của ông nằm ở năng lực tự quyết của chính người Việt Nam - cách họ vượt qua áp lực của chủ nghĩa thực dân về mặt trí tuệ và văn hóa. Trong khi đó, cuốn "Indochine, une colonisation ambiguë 1858-1954" của hai giáo sư Pháp Pierre Brocheux và Daniel Hémery (2001) lại mang đến một cái nhìn toàn cảnh về một chế độ thuộc địa đầy "mơ hồ", không chỉ vạch ra sự bóc lột mà còn chỉ ra cả những tác động mang tính xây dựng của nó. Nếu lập trường của Marr có thể được xem là gần với quan điểm tự do, thiên tả khi tập trung vào tiếng nói của người bị trị và khát vọng giải phóng dân tộc, thì hai sử gia người Pháp lại chủ đích tìm kiếm một sự đánh giá cân bằng hơn, phân tích cấu trúc và chính sách của chủ nghĩa thực dân như một hiện tượng lịch sử phức tạp. Sự kết hợp giữa hai lăng kín, một bên soi rọi vào tâm tư và cuộc đấu tranh của người Việt, bên kia bao quát cả bộ máy cai trị với những mâu thuẫn cố hữu của nó—đã kiến tạo nên một sự am hiểu đa chiều, tạo nên một nền tảng tri thức phong phú về thời kỳ lịch sử quan trọng này. Tuy vậy, dù sâu sắc đến đâu những học giả này cũng là người dưng, có thể ít nhiều nhãn quan hay hậu ý chính trị.
So với hai công trình sử học trên, một người Việt từng xa quê hương đủ lâu để có một cái nhìn không còn vướng bận với tình cảm chủ nghĩa dân tộc hay đã qua những ngày mặc cảm hậu thuộc địa, cuốn sách Đường Lối Chính Trị Của Phủ Toàn Quyền Đông Dương của nữ sĩ Ngô Thị Quý Linh như một cơn gió mát từ quá khứ của chính bản thân mình, của lịch sử “ mang guốc mộc” không trau chuốt của quê hương hiện về.
Cuối cùng, xin vắn tắt giới thiệu vài dòng về tác giả, một trong những học giả hiếm hoi thuộc thế hệ Việt kiều đầu tiên còn tích cực hoạt động trong nhiều ngành văn hóa:
Vài nét về tác giả Ngô Thị Quý Linh
- Chính quán Hà Đông (Bắc Phần) , sinh quán Huế (1954 năm đất nước chia đôi)
- Học sinh chương trình Pháp ở Trường Tiểu học Colette và Trung học Collège Fraternité (Sài Gòn)
- Cựu sinh viên năm thứ 2 trường Đại học Y Khoa Sài Gòn (1975).
- Từng tham dự với tư cách thuyết trình viên tại Hội thảo Giáo dục Y khoa ở Đà Lạt (1974)
- Di tản bằng máy bay khỏi Sài Gòn ngày 29 tháng 4, từ Subic Bay, qua Guam, đến trại tỵ nạn Fort Chaffee, Arkansas.
- Định cư cùng gia đình tại Chicago; làm phụ giáo (teacher-aid) cho các trẻ em tàn tật
- Học tại Barat College và Oberlin College.
- Định cư ở Texas (sau khi lập gia đình).
- Từ năm 1981, cùng với phu quân, sưu tầm, chụp photocopy các sách báo tiếng Việt lưu trữ tại các trường đại học Mỹ ở Đông Bắc Hoa Kỳ (là căn bản cho cuốn Sử Xanh Lưu Truyền sau này), sưu tầm các sách vở về văn hóa Việt nam, hình ảnh, cổ vật
- Đã xuất bản một số sách cho thanh thiếu niên từ năm 1990: Bộ sách Tôi Yêu Quê Tôi gồm nhiều tập; Children of Dragons and Grandchildren of Fairies; Truyện Truyền Kỳ Việt Nam; Truyện Cổ Tích Việt Nam; Thần Thoại Của Dân Việt; Ngày Của Em; Tết Việt Nam.
- Tác phẩm về lịch sử và văn hóa Việt Nam:
- Sử Xanh Lưu Truyền (1991)
- Lời Mẹ Hiền qua tục ngữ ca dao (1993)
- Lược sử Triết lý Giáo dục Việt Nam (1997)
- Lịch sử Việt Nam từ thuộc Pháp đến Độc Lập, 1858-1945 (2002)
- Việt Nam và Công cuộc Duy Tân (2019)
- Phật Giáo Việt Nam, Từ khởi thủy đến tiền bán thế kỷ thứ 20 (2021)
- Cố vấn cho Viện Bảo Tàng Thiếu Nhi tại Houston (Children’s Museum of Houston) năm 2004 để thực hiện triển lãm “Con Rồng Cháu Tiên”.
- Thành lập Trường Truyền Thống Việt từ năm 2006 đến năm 2020.
- Phụ trách chương trình Văn Hóa Việt trên đài Saigon Houston từ năm 2007.
- Cộng tác từ năm 2014 với Nhóm Thực Hiện Từ Điển Việt Nam tại Hải Ngoại (do Giáo sư Nguyễn Song Thuận chủ trương).
- Thành viên Viện Nghiên Cứu Lịch Sử và Văn Hóa Việt Nam (Nam California).
Hồ Văn Hiền
Great Falls, ngày 24 tháng 9 năm 2025












