"Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông." ** Nguyễn Bá Học **

 

Vitamin K2

 

Năm 1929, nhà khoa học người Đan Mạch Henrik Dam (1895-1976) nghiên cứu quá trình chuyển hóa (metabolism) của chất cholesterol ở loài gà và nhận xét rằng nếu gà không được ăn chất béo sẽ mắc các rối loạn chảy máu, không thể giải quyết bằng cách chỉ bổ sung cholesterol. Điều này dẫn đến việc phát hiện ra một yếu tố hòa tan trong chất béo cần thiết cho quá trình đông máu, được đặt tên là "vitamin K" theo từ tiếng Đức Koagulation (đông máu). Trong thập niên 1930, nhà hóa sinh người Mỹ Edward Doisy (1893-1986) xác định được cấu trúc hóa học của vitamin K (phylloquinone) và tổng hợp nó. Dam và Doisy đã chia sẻ Giải Nobel Y học năm 1943 cho công trình nghiên cứu của họ về vitamin K1.
Đối với đa số bác sĩ thế hệ trước, Vitamin K gắn liền với vai trò của nó giúp đông máu. Các trẻ sơ sinh được chích một mũi Vitamin K để ngừa chảy máu vì sữa mẹ không có vitamin K , do đó trong mấy tháng đầu, bé có thể mắc các chứng chảy máu vì máu khó đông.
Trước năm 1975, các bác sĩ Việt Nam cũng hay chích vitamin K cho các trường hợp chảy máu (ví dụ sau khi sinh, “làm băng”), và bị các bác sĩ Mỹ tình nguyện dạy tại trường Y khoa Sài Gòn chỉ trích nhiều vì trên lý thuyết khoa học vitamin K không nhắm vào nguyên nhân trực tiếp của việc chảy máu (như khi sinh xong, tử cung không co bóp nên các mạch máu vẫn không đóng lại, làm chảy máu). Tuy nhiên, có thể các bác sĩ của mình hồi đó có đúng một phần vì phụ nữ Việt thời đó thiếu dinh dưỡng và có thể thiếu vitamin K.
Gần đây, một loại Vitamin K2 được nói đến nhiều trên các truyền thông đại chúng vì tác dụng chính của nó trên sức khỏe mạch máu và xương, và tác dụng của nó không dính líu tới việc đông máu. Trước đó, trong 50 năm sau khi khám phá ra vitamin K, người ta không biết đến các đặc tính của vitamin K trên xương và chưa biết trong cái gọi là vitamin K thời đó có hai thành phần khác nhau là vitamin K1 (phụ trách đông máu) và K2 có những tác dụng trên sinh lý của canxi (calcium) và xương.
Con người cần vitamin K2 trong chế độ ăn uống để có sức khỏe tối ưu, do tính ưu việt của nó so với K1. Vitamin K2 có hiệu quả hơn, ít nhất ba lần so với vitamin K1 trong việc kích hoạt các protein liên quan đến quá trình trao đổi chất của bộ xương. Trong khi lượng vitamin K2 có liên quan nghịch với bệnh tim ở người, lượng vitamin K1 thì không. Sự vượt trội về dinh dưỡng này cho thấy rõ tại sao điều quan trọng là phải sử dụng thực phẩm giàu vitamin K2 như nội tạng và chất béo của động vật ăn cỏ và bơ màu cam đậm từ động vật chăn thả trên đồng cỏ phong phú. 1

K2 là một khám phá khá mới nên chúng ta sẽ bàn sâu hơn.

VitaminK2 1 HVH

Fig.5 : Công thức của vitamin K1 và K2

Vitamin K2 (menaquinone, từ MK-4 đến MK-13) là một phân nhóm trong nhóm bao gồm các vitamin K khác nhau.
Weston Price (1870-1948) là một nha sĩ người Canada có nhiều khảo cứu về vai trò của dinh dưỡng trong nha khoa. Ông đã đi khắp thế giới vào những năm 1930's, nghiên cứu chế độ ăn uống và sức khỏe răng miệng của nhiều nền văn hóa truyền thống khác nhau, từ các làng xa xôi trên núi ở Thụy Sĩ, cho đến các thổ dân ở gần Bắc cực, các thổ dân ở New Zealand. Ông quan sát thấy những người ở các nơi hẻo lánh ăn uống theo lối truyền thống của họ có sức khỏe răng miệng và sức khỏe thể chất tổng thể tốt hơn đáng kể so với những người dùng các thực phẩm chế biến kiểu phương Tây tại các vùng phát triển, thành thị. Ông suy diễn rằng chế độ ăn truyền thống, đặc biệt là những chế độ giàu chất béo động vật từ động vật ăn cỏ (như bơ, sữa, thịt của bò, cừu , dê), chứa một chất dinh dưỡng chưa biết đến mà ông gọi là "Activator X" (chất kích hoạt X), rất quan trọng cho việc sử dụng khoáng chất đúng cách, và đặc biệt phổ biến trong chất béo bơ, nội tạng động vật và một số loại hải sản. Những năm sau đó, các nghiên cứu đã cho thấy "Activator X" là vitamin K2. Tóm lại, nghiên cứu của Weston Price và việc ông xác định "Activator X" đã đặt nền móng cho sự hiểu biết hiện tại của chúng ta về tầm quan trọng của vitamin K2.
Sau nhiều thập kỷ, vitamin K2 lại được y giới chú ý vào cuối thế kỷ 20. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã liên kết natto giàu K2 (natto=đậu nành lên men) với sự cải thiện sức khỏe xương trong lúc tìm hiểu về lối ăn uống truyền thống của các samurai ngày xưa. Một truyền thuyết kể rằng một samurai vào thế kỷ thứ 11 đang nấu đậu nành cho ngựa ăn thì bị địch tấn công. Họ bèn gói ghém các hạt đậu đang luột vào các túi rơm. Vài ngày sau, mở ra thì các hạt đã lên men, có mùi nồng mà lại ăn rất ngon và được dâng lên chủ tướng. Natto trở thành món ăn bỗ dưỡng của người samurai từ đó. 2

Các nghiên cứu gần đây nhấn mạnh vai trò của vitamin K2 trong việc giảm việc đọng calcium vào các vách động mạch và giảm nguy cơ tim mạch.

Sau đây là những điểm chính về Vitamin K2:

-Sức khỏe xương:

Vitamin K2 kích hoạt osteocalcin, một loại protein liên kết canxi và hướng canxi đến xương và răng, giúp xây dựng và duy trì xương chắc và khỏe mạnh hơn. Nó giúp ngăn ngừa loãng xương (osteoporosis) bằng cách thúc đẩy quá trình khoáng hóa xương và tăng mật độ xương (bone density). Vitamin K2 ở trong máu lâu hơn K1.

-Sức khỏe tim mạch:

“Matrix Gla Protein” (MGP) là một protein đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa vôi hóa mạch máu và điều chỉnh khoáng hóa xương. Nó được tổng hợp trong nhiều mô khác nhau, bao gồm các tế bào cơ trơn mạch máu, sụn và xương. MGP hoạt động bằng cách ức chế sự kết tủa canxi-phosphate (precipitation of calcium phosphate) và ngăn chặn các quá trình vôi hóa trong các mô mềm và động mạch. Cần có sự có mặt của Vitamin K2 để kích hoạt MGP, và nhờ đó giúp ngăn ngừa vôi hóa động mạch (arterial calcification), góp phần vào việc bảo vệ lưu lượng máu khỏe mạnh trong các động mạch và giảm nguy cơ mắc các biến cố tim mạch.

-Điều hòa canxi:

Về cơ bản, vitamin K2 giúp đảm bảo canxi được lắng đọng ở nơi cần thiết (xương và răng) và ngăn ngừa tích tụ ở nơi không cần thiết (động mạch và mô mềm).

-Các lợi ích tiềm năng khác:

Có những nghiên cứu đang được tiến hành để khám phá các vai trò tiềm năng của vitamin K2 trong các lĩnh vực khác như sức khỏe răng miệng, sức khỏe não bộ, và tiềm năng phòng ngừa ung thư.

- Riêng về bệnh loãng xương (osteoporosis): Theo tài liệu của Viện Sức khỏe Hoa Kỳ (NIH): “Ở Nhật Bản và các khu vực khác của Châu Á, liều dược lý MK-4 (45 mg) được sử dụng để điều trị loãng xương. Cơ quan An toàn Thực phẩm Châu Âu đã chấp thuận một tuyên bố về sức khỏe đối với vitamin K, lưu ý rằng “mối quan hệ nhân quả đã được thiết lập giữa lượng vitamin K hấp thụ qua chế độ ăn uống và việc duy trì xương bình thường”. FDA chưa chấp thuận một tuyên bố về sức khỏe đối với vitamin K tại Hoa Kỳ.” https://ods.od.nih.gov/factsheets/vitaminK-HealthProfessional/

- Nguồn thực phẩm chứa Vitamin K:

1) Natto và các thực phẩm đậu nành lên men
Natto là một món ăn truyền thống của Nhật Bản làm từ đậu nành lên men. Nó được tạo ra bằng cách lên men đậu nành nguyên hạt với vi khuẩn Bacillus subtilis var. natto, tạo ra kết cấu dính, nhớt và dai. Natto có mùi hăng nồng và thường được dùng với nước tương, mù tạt và hành lá trên cơm. Natto giàu chất dinh dưỡng, bao gồm protein, vitamin và khoáng chất như vitamin K2, hỗ trợ sức khỏe xương và tim. Mặc dù có mùi vị khó chịu, natto được coi là một siêu thực phẩm do có nhiều lợi ích cho sức khỏe.

VitaminK2 2 HVH

Fig 6: Natto trên nền cơm. (nguồn Wikipedia)

Vitamin K 2 có nhiều trong các sản phẩm đậu lên men của Trung Quốc, hàm lượng của nó chủ yếu bị ảnh hưởng bởi vi sinh vật lên men và công nghệ chế biến.
Chao của Việt Nam (đậu phụ lên men) chứa vitamin K2, mặc dù với lượng thấp hơn so với natto. Các nghiên cứu về các sản phẩm đậu nành lên men như sufu (tương tự như chao) cho thấy chúng thường chứa vitamin K2, nhưng mức độ khác nhau tùy thuộc vào quá trình lên men và vi sinh vật được sử dụng. Ví dụ, sufu đã được tìm thấy chứa khoảng 7,48 μg K2 trên 100 g, ít hơn đáng kể so với natto, có thể chứa tới 775–1765 μg trên 100 g.
Nước mắm không chứa vitamin K2. Theo dữ liệu dinh dưỡng hiện có, nước mắm thường có hàm lượng vitamin K không đáng kể, bao gồm cả K2, do quy trình sản xuất và thành phần của nó.

2) Các loại thực phẩm giàu Vitamin K2 bao gồm, theo thứ tự:

  • Natto (đậu nành lên men): 1103,4 mcg/100g.
  • Gan ngỗng: 369 mcg/100g.
  • Phô mai cứng (ví dụ: Gouda, Edam): 76–103 mcg/100g.
  • Phô mai mềm (ví dụ: Brie, Camembert): 28–56 mcg/100g.
  • Lòng đỏ trứng: 15–32 mcg/100g.
  • Gan gà: 14,1 mcg/100g.
  • Xúc xích Ý ( salami): 28 mcg/100g.
  • Bơ: 15 mcg/100g.
  • Dưa cải bắp (Sauerkraut) 4,8 mcg/100 g.

3) Các viên vitamin supplement chứa K2 đơn độc hoặc cùng chung với vitamin D.
4) Vitamin K2 dạng MK7 có half-life dài hơn MK4, thường được chiết tinh từ các thực phẩm lên men như natto.Liều lượng chừng 100-120 microgram/ngày, thuốc bán không cần toa (OTC) ở Mỹ. Ở Nhật và Châu Á, Vitamin K2 MK4 được khuyến cáo dùng liều lượng 45 microgram/ngày.

Có vitamin K2 ở dạng thuốc xịt vào miệng (oral spray) vitamin K2 ở Mỹ , thường được kết hợp với vitamin D3. Ví dụ:

  • BetterYou D3000 Plus K2 Oral Spray
    Nutrafi D3 + K2 Oral Vitamin Spray

Vitamin K2 (MK-7) là một chất bổ sung an toàn, vì không có tác dụng phụ ở người khỏe mạnh nên Tổ chức Y tế Thế giới và Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc không đặt ra mức tiêu thụ tối đa có thể chấp nhận được đối với vitamin K2. Điều quan trọng cần lưu ý là vitamin K2 có khả năng làm giảm hiệu quả chống đông máu của warfarin (Coumadin), một loại thuốc được kê đơn rộng rãi cho người cao tuổi. Do đó, vitamin K2 không được khuyến cáo cho những người đang điều trị bằng warfarin.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền
Ngày 22 tháng 10 năm 2025

1 https://www.uspharmacist.com/article/the-emerging-role-of-vitamin-k2
2 Wikipedia: Natto

 

Thống-Kê Vào Làng

Viet Nam 45.4% Viet Nam
United States of America 20.2% United States of America
China 10.6% China
Italy 8.9% Italy
Germany 6.8% Germany
Canada 2.2% Canada
Australia 1.2% Australia

Total:

84

Countries